Bệnh dịch tả heo Châu Phi (ASF) và những câu hỏi thường gặp

20/02/2019
Facebook

Ngày 19.02.2019, Cục Thú Y thông báo bệnh dịch tả lợn châu Phi  đã vào Việt Nam, gây thiệt hại nghiêm trọng cho người chăn nuôi. Hãy cùng trang bị các kiến thức về căn bệnh này để cùng chủ động phòng tránh, phát hiện và có các biện pháp xử lý kịp thời:

TỔNG QUÁT

Bệnh dịch tả lợn châu Phi (ASF) là gì?

Bệnh Dịch Tả Lợn Châu Phi chỉ ảnh hưởng đến tất cả các loại heo, ở tất cả các giống và độ tuổi. Nó xuất hiện trong trại chăn nuôi heo và heo hoang dã (như heo rừng châu Phi), heo rừng, heo ven sông châu Phi, heo rừng to châu Phi, lợn lòi Trung và Nam Mỹ.

Đây là một loại bệnh gây ra bởi một loại vi rút có ADN phức hợp của dòng vi rút họ Asfarviridae. Vi rút này có đặc tính đặc biệt đề kháng với môi trường mà không có biện pháp điều trị cũng như tới nay chưa có vắc xin phòng ngừa, và tỷ lệ chết lên đến 100% trong tất cả các trại heo. Với lý do này, bệnh Dịch Tả Lợn Châu Phi xuất hiện dẫn đến những vấn đề nghiêm trọng đối với giới chức y tế và ngành công nghiệp về thịt heo.

Hiện nay đang có rất nhiều nguồn tư liệu nói về bệnh này và cách kiểm soát dịch tả Lợn Châu Phi thông qua trang web  http://www.cfsph.iastate.edu

 

Liệu bệnh Dịch Tả Lợn Châu Phi có ảnh hưởng đến con người hoặc những loài vật khác?

Nó không ảnh hưởng đến con người hoặc những động vật khác so với loài heo. Nhưng, con người và động vật khác có thể có vai trò quan trọng trong việc gieo rắc bệnh này.

 

Hiện bệnh ASF xuất hiện tại bao nhiêu quốc gia?

Bệnh dịch tả lợn châu Phi đang xảy ra ở các khu vực châu Phi hạ Sahara. Qua nhiều thập kỷ, bệnh này đã xuất hiện và đã được xóa bỏ tại một số vùng ở châu Âu, biển Caribe và Brazin. Gần đây bệnh này đã lan tới nước Georgia từ năm 2007 và đến Liên Minh Châu Âu đi trực tiếp qua Nga, Belarus và Ukraina trong năm 2014, đến Rumani vào năm 2017, cho đến nay đa số bệnh nằm lại ở heo rừng hoang dã. Heo nuôi trang trại bị nhiễm bệnh được tìm thấy dấu hiệu đầu tiên vào mùa hè năm 2018 ở một số tỉnh của Trung Quốc, điều này dấy lên mối lo ngại toàn cầu về khởi đầu của đại dịch tại châu Á. Để cập nhật thông tin nóng diễn biến của bệnh Dịch Tả Lợn Châu Phi, chúng ta có thể vào trang web:http://www.oie.int/wahis/public.php?page=home.

 

Những triệu chứng lâm sàng của bệnh ASF là gì?

Thời gian ủ bệnh của bệnh Dịch Tả Lợn Châu Phi thường khoảng 5-15 ngày với những dấu hiệu chết xảy ra từ 6-13 ngày tính từ ngày khởi đầu của bệnh, và tỷ lệ nhiễm bệnh rất cao lên đến 100%. Những triệu chứng của bệnh gồm sốt cao, xuất huyết da và cơ quan nội tạng. Những triệu chứng lâm sàng khác có thể bao gồm chán ăn, ủ rũ, đỏ ở da tai, bụng, các chân, dấu hiệu bệnh hô hấp (kiệt sức), ói, chảy máu mũi, trực tràng, và một số dấu hiệu tiêu chảy. Xảy thai có thể xuất hiện trong thời kỳ đầu khi dịch bệnh nổ ra. Những thể vi rút độc lực trung bình có thể sinh ra triệu chứng ít mãnh liệt hơn nhưng dầu sao đi nữa tỷ lệ chết vẫn cao từ 30-70%. Những triệu chứng của bệnh mạn tính bao gồm giảm trọng lượng, sốt thất thường, dấu hiệu bệnh hô hấp, viêm da viêm khớp mãn tính.

Chẩn đoán bệnh ASF như thế nào?

Bệnh Dịch Tả Lợn Châu Phi về triệu chứng lâm sàng thì khó phân biệt với bệnh dịch tả lợn cổ điển, nó phải được chẩn đoán phân biệt tại phòng thí nghiệm. Phương pháp chẩn đoán có thể xác định trực tiếp vi rút bằng phát hiện kháng nguyên bởi kháng thể huỳnh quang, nuôi cấy tế bào, hoặc phát hiện bằng chuỗi phản ứng polymerase hóa (PCR). Kiểm tra huyết thanh học như trực tiếp kháng thể huỳnh quang hoặc ELISA có thể xác định thông qua kháng thể ASF trong mẫu máu được lấy từ sau khi heo nhiễm bệnh từ 8-21 ngày.

Tham khảo thông tin về cách phân biệt giữa dịch tả heo Châu Phi (ASF) và dịch tả heo thông thường (CSF)

TÌNH HÌNH DỊCH TỄ

Bệnh ASF lây truyền như thế nào?

Sự lây truyền của ASF rất phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố, tuy nhiên con đường chính truyền bệnh được biết qua: việc con người đi lại từ những nơi có mối nguy tiềm tàng gây bệnh và con người vận chuyển thực phẩm nhiễm bệnh từ khu vực bị bệnh, đối với khoảng cách xa, và trực tiếp tiếp xúc giữa heo rừng mang bệnh hoặc heo nuôi mang bệnh với khoảng cách gần. Những yếu tố lây bệnh khác như những con bọ trong vùng cận nhiệt đới, nguồn nước nhiễm bẩn, thực phẩm và xe vận chuyển thức ăn bị nhiễm bẩn, và những đường lây truyền tương tự như các loại vi rút khác. Kiểm soát những mối nguy là điều cốt lõi của kế hoạch an toàn sinh học. Chúng tôi sẽ tiếp tục cập nhật tin tức liên quan đến vấn đề này.

2 con đường truyền bệnh

  • Trực tiếp
    • Tiếp xúc với heo rừng nhiễm bệnh​
  • Gián tiếp
    • Cỏ tươi và những hạt giống cũng có thể là mối nguy bị nhiễm từ bãi thải của những heo rừng bị nhiễm bệnh
    • Sản phẩm thịt heo: như chúng ta biết, ASF có thể đề kháng lại trong quá trình chế biến sản phẩm tươi, đông lạnh, thịt muối, thịt xông khói và sản phẩm xúc xích có thể bị nhiễm đối với heo nuôi hoặc heo hoang dã trong thời gian dài.
    • Những tế bào bị nhiễm bệnh như máu, tinh trùng, huyết thanh và chất thải thức ăn, những cơ sở sản xuất bị nhiễm, xe cộ, dụng cụ hoặc quần áo.
    • Côn trùng trực tiếp truyền bệnh (những con bọ rừng vùng cận nhiệt đới hoặc ruồi cắn)

Thức ăn và nguyên liệu làm thức ăn có thể lây truyền bệnh ASF không?

Virus ASF đề kháng rất cao và có thể tồn tại từ 6 tháng, tới hàng năm trong nguyên liệu, ví dụ như sản phẩm thịt heo bị nhiễm bệnh không được nấu chín, và nó tồn tại lâu hơn nếu sản phẩm đông lạnh. Nó cũng được tìm thấy còn khả năng gây nhiễm bệnh trong vòng ít nhất nhất 30 ngày ở chuồng heo bỏ không do dịch bệnh.

Những thực phẩm chế biến hoặc nguyên liệu không qua chế biến, nấu chín từ thịt heo và ngũ cốc thu hoạch từ vùng có nhiễm bệnh từ lợn hoang sẽ hiện diện nguy cơ gây bệnh. Vi rút ASF đề kháng trung bình trong môi trường nhiệt và môi trường a xít. Những thức ăn thô không xử lý nhiệt như bắp, lõi ngô, cỏ khô, rơm hoặc ngũ cốc phơi từ khu vực rủi ro không nên được sử dụng. Một nghiên cứu gần đây (Dee et al., 2018) khuyến cáo rằng vi rút ASF có thể tồn tại 30 ngày vận chuyển trong nguyên liệu thức ăn sấy khô như bã đậu tương hoặc trong một số chất phụ gia thức ăn. Những nghiên cứu này chưa được kiểm chứng lại bởi đội ngũ nghiên cứu và tính đại diện của mô hình được sử dụng để nghiên cứu còn đang thuộc diện tranh cãi.

Việc tập trung ngăn ngừa lây nhiễm nên bắt đầu từ những điểm mấu chốt trong chuỗi sản xuất, từ những tế bào heo bị nhiễm bệnh hoặc nguyên liệu bị nhiễm.

 

Những mối nguy gì liên quan trong việc vận chuyển?

Khi vi rút ASF đề kháng cao thì nguy cơ lớn trong việc nhiễm bệnh lây truyền trực tiếp từ phương tiện vận chuyển đến từ những vùng nhiễm ASF. Vì thế các chuyên gia khuyến cáo rằng trước khi đi vào khu vực không bị nhiễm thì phương tiện cần phải được lau rửa sát trùng ở  biên giới phía ngoài.

 

Con người có thể lây nhiễm và phát tán ASF không?

  • Con người có can dự vào chính trong mối nguy phát tán bệnh qua khoảng cách lớn, ví dụ con người mang những sản phẩm thịt bị nhiễm bệnh như xúc xích hoặc nguyên liệu, dụng cụ săn bắt từ những vùng có dịch tễ bệnh ASF.
  • Nông dân và công nhân trại: nên tập trung vào an toàn sinh học (theo khuyến cáo về an toàn sinh học cho người chăn nuôi heo), tránh tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp heo với thức ăn thừa. Trong trường hợp mà có dấu hiệu lâm sàng được quan sát (xem triệu chứng lâm sàng ASF) thì nên báo cáo ngay tới những cơ quan thẩm quyền. Để ngăn ngừa bệnh thì việc vận chuyển gia súc, tinh, phôi ra khỏi những nhà máy, công ty sản xuất là việc không nên làm.
  • Đối với những người săn bắn: để vô hiệu hóa vi rút ASF, những dụng cụ săn bắn phải được rửa sạch bùn bụi sau đó đưa vào môi trường có nhiệt độ ít nhất 60 độ C trong vòng ít nhất 30 phút hoặc xử lý với thuốc sát trùng có tác dụng trên vi rút (như Virkon S 1% hoặc dung dịch clorit 2%) tùy theo nhà sản xuất khuyến cáo.
  • Bất cứ người ngoài nào tới từ vùng được biết có dịch bệnh ASF nên thực hiện nghiêm ngặt quy trình an toàn sinh học theo khuyến cáo

 

PHÒNG NGỪA

Làm thế nào để vô hiệu hóa vi rút?

  • Nhiệt độ: nhiệt độ có thể vô hiệu hóa vi rút là trên 60 độ C trong 30 phút
  • Độ pH: PH< 3,9 hoặc >11,5 có thể vô hiệu hóa vi rút không có huyết thanh. Huyết thanh tăng độ đề kháng của vi rút, ví dụ ở mức pH 13,5 vi rút có thể chống chọi trong 21 giờ không có huyết thanh và tới 7 ngày có huyết thanh.
  • Hóa chất / thuốc sát trùng: vi rút mẫn cảm đối với ê te, clor. Vi rút bị vô hiệu hóa bởi Natri hydroxid (xut) 8/1000, hypochlorite 2.3% clorin (30 phút) và formalin 3/1000 (30’), ortophenyphenol 3% (30’), hỗn hợp i ốt. Virkon S được khuyến cáo như thuốc sát trùng thương mại ngăn vi rút ASF.
  • Kiểm tra thông tin qua trang  web:
    https://www.aphis.usda.gov/emergency_response/downloads/nahems/Selected%20FAD%20table%20Oct%202011.pdf

 

Cơ quan thẩm quyền về y tế nên thực hiện những biện pháp gì để ngăn ngừa ASF?

Cho tới nay chưa có thuốc hoặc vắc xin ngừa ASF. Vì thế để đánh giá việc ngăn ngừa bệnh này cần thực hiện theo quy trình ngăn ngừa, kiểm soát dịch bệnh như sau:

  • Giám sát chính xác tình hình dịch tễ. Hướng dẫn một cách hệ thống về điều tra dịch tễ trong trường hợp có dịch xảy ra với nguồn gốc truy xuất từ trên xuống và có thể từ dưới lên của việc lây nhiễm.
  • Áp dụng những biện pháp an toàn sinh học nghiêm ngặt để kiểm tra sự thích ứng đối với những nhóm mục tiêu đặc biệt (như nhà máy thức ăn, trại heo, người săn bắn, tài xế xe tải, v.v.)
  • Kiểm soát nghiêm ngặt hệ thống cung cấp và tập trung vào kiểm tra ngăn ngừa để tránh nhiễm từ nguyên liệu nhiễm và khâu xử lý nhiệt.
  • Tránh để đàn heo nuôi tiếp xúc trực tiếp với heo rừng, với bọ và các động vật hoang dã khác: nên có hàng rào trong khu trại, nhà máy, cơ sở và phải kiểm soát thú nuôi.
  • Ngừng vận chuyển và kiểm soát tinh, phôi để tránh việc phát tán, lây truyền bệnh.
  • Xây dựng khu kiểm soát xung quanh cơ sở nhiễm bệnh và giám sát việc vận chuyển heo trong khu vực. Xử lý loại bỏ heo bệnh trong trại. Chú ý cần tránh những heo từ việc săn bắn hoặc heo rừng vì chúng có nguy cơ gây nhiễm bệnh cao hơn.
  • Thịt heo và xác gia súc phải được hủy bằng cách đốt, chôn và cơ sở nhiễm bệnh phải xử lý sát trùng toàn diện, đầy đủ các loại thuốc sát trùng.

Để có thêm thông tin, vui lòng truy cập: http://www.fao.org/3/a-i7228e.pdf.

 

Những biện pháp an toàn sinh học nào cần thực hiện tại trại?

  • Tránh tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp giữa heo và heo rừng, heo hoang dã từ những cơ sở khác nhau
  • Kiểm soát việc sắp xếp vận chuyển heo và gia súc mới đến vào trại
  • Chim/gà hoang dã, côn trùng và súc vật khác nên nuôi nhốt tránh xa những trang trại, tránh xa nguồn nước và nơi ăn của heo nuôi
  • Chỉ sử dụng trang phục lao động và ủng dành riêng cho công việc tại trại
  • Thay đồ và giày dép khi ra vào trại
  • Không cho mượn, dùng chung dụng cụ dùng tại trại giữa các trại hoặc khu vực làng xóm với nhau. Nếu cần thiết thì phải thực hiện kỹ việc vệ sinh và khử trùng dụng cụ
  • Xây dựng riêng khu vực sạch, khu nhiễm bẩn cho nhân viên trại
  • Tránh tiếp xúc với những con heo khác và tham gia các hoạt động săn bắn trong vòng 48 giờ trước khi tiếp xúc với heo trại
  • Những người và phương tiện không phận sự không được vào cơ sở chăn nuôi heo
  • Mọi phương tiện vào trại cần được làm sát trùng ưu tiên và không được thăm trại khác trước đó​
  • Công tác sát trùng cần được thực hiện ở khu vực cổng và tại chuồng, sử dụng các loại thuốc sát trùng được EPA phê duyệt ( xem thông tin về cách vô hiệu hóa vi rút – các hóa chất/chất sát trùng)
  • Tại những khu vực có vấn đề, tránh sử dụng nông sản, cỏ rơm thu hoạch trong vùng trừ khi chúng được xử lý vô hoạt hóa vi rút ASF. Đảm bảo rằng điều kiện lưu trữ (không để tiếp xúc với heo rừng), trong một khoảng thời gian nhất định. Nếu có nghi ngờ về các nguyên liệu thô này, liên hệ Ban Chỉ đạo về Sức khỏe và An toàn Thực phẩm của Liên minh Châu Âu (cách vô hiệu hóa vi rút – các hóa chất/chất sát trùng).
  • Tránh tiếp xúc (trực tiếp hoặc gián tiếp) với phụ phẩm gia súc hoặc sản phẩm phế thải
  • Dự trữ, nuôi trong nhà, hàng rào chuồng ổn định và cơ sở nơi dự trữ thức ăn
  • Không được chuyển heo từ chợ bán gia súc về lại trại. Tuy nhiên, nếu cần đưa về trại thì heo cần phải được cách ly 14 ngày trước khi nhập đàn

 

Nguồn: Cargill Việt Nam